Nông nghiệp – nền tảng vật chất của quốc gia
Không một dân tộc nào có thể phát triển trường tồn nếu không bảo đảm được an ninh lương thực – yếu tố sống còn trong mọi thời kỳ lịch sử. Với đặc điểm địa lý, khí hậu và điều kiện tự nhiên ưu đãi, Việt Nam sớm hình thành một nền nông nghiệp trồng lúa nước phong phú và độc đáo.
Trải qua bao cuộc chiến tranh, biến động thiên tai, dịch bệnh, nền nông nghiệp vẫn kiên cường là trụ đỡ của đời sống kinh tế – xã hội.
Ngay cả trong những năm tháng gian khổ nhất của kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, nông dân và nông nghiệp vẫn gánh vác sứ mệnh thiêng liêng: “Hậu phương lớn” cho tiền tuyến.
Sự bền bỉ của nông dân, những mùa vụ đầy mồ hôi và hy sinh đã góp phần làm nên thắng lợi vĩ đại, giữ gìn độc lập và tự do cho Tổ quốc. Sau hòa bình lập lại, chính nông nghiệp là lĩnh vực vực dậy đầu tiên, từng bước bảo đảm tự chủ lương thực, góp phần quan trọng trong xóa đói, giảm nghèo.

Ngày nay, trong điều kiện hội nhập và toàn cầu hóa, nền nông nghiệp tiếp tục giữ vai trò cốt lõi trong bảo đảm an ninh kinh tế, xã hội, ổn định chính trị và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ.
Đặc biệt trong đại dịch COVID-19, khi nhiều lĩnh vực sản xuất – dịch vụ đình trệ, nông nghiệp đã chứng tỏ sức chịu đựng dẻo dai, đóng vai trò là “trụ đỡ” của nền kinh tế, duy trì chuỗi cung ứng thiết yếu và ổn định đời sống nhân dân.
Nông nghiệp trong bản sắc và hồn cốt dân tộc
Nông nghiệp không chỉ tạo ra sản phẩm vật chất mà còn là chiếc nôi nuôi dưỡng văn hóa, đạo lý và bản sắc Việt.
Từ cái cày, cái cuốc, đến hạt lúa, giếng nước, sân đình – mọi biểu tượng của nông thôn đều thấm đẫm tinh thần dân tộc, thể hiện rõ nét mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, cộng đồng và tổ tiên.
Những làn điệu dân ca, tục lệ cổ truyền, tín ngưỡng thờ Thần Nông, lễ hội cầu mùa… đều bắt nguồn từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước.
Sống giữa đồng ruộng và thiên nhiên khắc nghiệt – người nông dân Việt Nam đã hình thành nên những phẩm chất quý báu: cần cù, sáng tạo, đoàn kết, yêu quê hương, gắn bó với đất đai, có tinh thần tự lực, tự cường.

Những phẩm chất đó là trụ cột tinh thần để dân tộc Việt vượt qua mọi thử thách khắc nghiệt trong lịch sử và chính là sức mạnh mềm của quốc gia trong thời đại mới.
Chính vì vậy, bảo tồn và phát triển nông nghiệp, nông thôn không đơn thuần là một hoạt động kinh tế, mà là giữ gìn hồn cốt dân tộc, gìn giữ một lối sống, một hệ giá trị truyền thống sâu sắc đã làm nên tinh thần Việt Nam.
Những thách thức và yêu cầu chuyển mình
Tuy nhiên, nông nghiệp Việt Nam hiện nay đang đứng trước nhiều thách thức lớn. Đó là biến đổi khí hậu với những hậu quả khôn lường như hạn hán, xâm nhập mặn, lũ lụt; là sức ép từ hội nhập kinh tế toàn cầu với hàng rào kỹ thuật khắt khe về chất lượng, an toàn thực phẩm; là sự suy giảm tài nguyên đất, nước, và sự già hóa lực lượng lao động nông thôn.
Cùng với đó là tình trạng sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, năng suất thấp, chuỗi giá trị nông sản thiếu liên kết; nông dân thiếu vốn, thiếu khoa học kỹ thuật, thiếu thông tin thị trường; và sự cạnh tranh gay gắt từ các nền nông nghiệp công nghệ cao của thế giới.
Để đảm bảo vai trò trường tồn của nông nghiệp trong sự phát triển dân tộc, không thể tiếp tục cách làm cũ.

Cần một cuộc “chuyển mình” mạnh mẽ từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang tư duy kinh tế nông nghiệp; từ canh tác tự nhiên sang nông nghiệp thông minh, tuần hoàn, thích ứng với biến đổi khí hậu; từ sản xuất đại trà sang sản xuất chất lượng, bền vững, đáp ứng tiêu chuẩn toàn cầu. Trong sự trường tồn của nông nghiệp, nông thôn – người nông dân đóng vai trò “chủ thể”
Định hướng phát triển: Nông nghiệp sinh thái – nông dân chuyên nghiệp – nông thôn hiện đại
Nghị quyết số 19-NQ/TW năm 2022 của Trung ương Đảng đã xác định rõ mục tiêu: phát triển nông nghiệp sinh thái, nông dân văn minh, nông thôn hiện đại. Đây không chỉ là định hướng chiến lược mà còn là sự khẳng định vị thế lâu dài của nông nghiệp đối với sự trường tồn của dân tộc Việt Nam.
Phát triển nông nghiệp sinh thái không chỉ giúp bảo vệ môi trường, tài nguyên mà còn hướng đến giá trị bền vững, gắn sản xuất với bảo tồn văn hóa – sinh thái bản địa. Nông dân cần được đào tạo để trở thành chủ thể sản xuất hiện đại, am hiểu thị trường, có khả năng ứng dụng công nghệ cao. Và nông dân chính là tác nhân đầu tiên trong chuỗi cung ứng, chuỗi chuỗi giá trị toàn cầu.
Song song, xây dựng nông thôn mới không chỉ là làm đường, xây nhà mà phải kiến tạo một không gian sống nhân văn, hiện đại, đáng sống – nơi người trẻ muốn quay về, người già được chăm sóc, trẻ em được học hành đầy đủ và người lao động được phát triển toàn diện.
Khẳng định vai trò chiến lược và lâu dài
minh hoặc chạy theo tăng trưởng bằng mọi giá mà để người nông dân đứng ngoài lề của sự phát triển.

Vì thế, đầu tư cho nông nghiệp, đặt đúng vị trí người nông dân “là chủ thể của quá trình phát triển nông nghiệp”; xây dựng Hội Nông dân Việt Nam – tổ chức chính trị – xã hội của giai cấp nông dân vững mạnh về mọi mặt – đó không chỉ là đầu tư cho tăng trưởng mà còn là đầu tư cho ổn định xã hội, giữ gìn bản sắc dân tộc, bảo vệ an ninh quốc gia, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.
Hơn thế, một nền nông nghiệp hưng thịnh còn là biểu tượng cho sự giàu có, văn minh và tự cường của một quốc gia.
Nông nghiệp không chỉ là một ngành kinh tế, mà là căn cốt gắn bó máu thịt với sự tồn vong và trường tồn của dân tộc.
Trong hành trình phát triển và hội nhập của đất nước, phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững, hiện đại, thích ứng và nhân văn là con đường tất yếu để bảo đảm tương lai thịnh vượng và bền vững cho dân tộc Việt Nam.